Trên bầu trời miền Bắc Chiến_dịch_Sấm_Rền

Thuyết phục chiến lược

Để tiếp tục với khái niệm "từng bước", mà trong đó việc đe dọa tàn phá sẽ là một tín hiệu mạnh về quyết tâm của Mỹ, mạnh hơn chính sự tàn phá đó, việc nên làm là ném bom các mục tiêu không quan trọng để giữ các mục tiêu quan trọng trong tầm "đe dọa". Từ đầu chiến dịch Sấm Rền, Washington chỉ thị rõ những mục tiêu nào sẽ bị đánh, ngày giờ của cuộc tấn công, số lượng và chủng loại máy bay, khối lượng và chủng loại bom đạn sử dụng, và đôi khi thậm chí cả hướng tấn công.[21] Các cuộc không kích bị cấm trong phạm vi 30 hải lý (60 km) quanh Hà Nội và trong phạm vi 10 hải lý (19 km) cảng Hải Phòng. Một vùng đệm rộng 30 dặm cũng được kéo dài dọc theo biên giới với Trung Quốc. Theo sử gia không quân Mỹ Earl Tilford:

Việc đặt các mục tiêu rất khác với thực tế ở chỗ chuỗi các cuộc tấn công không hiệp đồng với nhau và các mục tiêu được duyệt một cách ngẫu nhiên - thậm chí phi lôgic. Các sân bay của miền Bắc, cái mà đáng ra phải được đánh đầu tiên theo bất cứ một chiến lược hợp lý nào, lại cũng nằm ngoài phạm vi cho phép.[22]

Tuy một vài trong các hạn chế này sau đó đã được nới lỏng hoặc hủy bỏ, Johnson (với sự ủng hộ của McNamara) kiểm soát chặt chẽ chiến dịch, điều này liên tục gây tức giận đối với các chỉ huy quân sự Mỹ, các thành viên cánh hữu trong Hạ viện Mỹ, và thậm chí cả một số người trong chính phủ.[23] Một trong các mục đích chính yếu của chiến dịch, ít nhất là đối với giới quân sự, đáng ra phải là phong tỏa cảng Hải Phòng và các cảng biển khác bằng việc thả thủy lôi từ trên không, từ đó làm giảm hoặc ngừng dòng hàng viện trợ đường biển vào miền Bắc. Tuy nhiên, tổng thống Johnson từ chối thực hiện một hành động khiêu khích như vậy, và đến năm 1972, việc phong tỏa này mới được thực hiện.[24]

Đa số các cuộc không kích trong chiến dịch Sấm Rền đã xuất phát từ 4 căn cứ không quân tại Thái Lan: Korat, Takhli, Udon Thani, và Ubon.[25] Sau khi tấn công các mục tiêu (thường bằng cách bổ nhào cắt bom), các máy bay sẽ hoặc bay thẳng về Thái Lan hoặc thoát ra ngoài vùng biển tương đối an toàn tại vịnh Bắc Bộ. Người ta đã nhanh chóng quyết định rằng, để hạn chế xung đột vùng trời giữa các lực lượng không kích của Không quân và Hải quân, miền Bắc Việt Nam được chia thành 6 vùng mục tiêu "Route Package", mỗi vùng được giao cho một trong hai lực lượng Không quân hoặc Hải quân, và lực lượng này không được xâm phạm vào vùng của lực lượng kia.

Bản đồ phân vùng ném bom miền Bắc Việt Nam của Kế hoạch chiến dịch "Sấm Rền"

Các cuộc không kích của Hải quân Mỹ xuất phát từ các tàu sân bay của Lực lượng đặc nhiệm 77 tuần tiễu ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Các máy bay của hải quân, với tầm bay ngắn hơn và sức mang bom nhẹ hơn máy bay của Không quân, chủ yếu đánh phá các mục tiêu ven bờ biển.

Ngày 3 tháng 4, Hội đồng tham mưu liên quân thuyết phục được McNamara và Johnson cho tổ chức một cuộc tấn công dài 4 tuần để phá các đường giao thông của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhằm cô lập quốc gia này với các nguồn hậu cần đường bộ từ Trung Quốc và Liên Xô. Khoảng 1/3 lượng hàng nhập khẩu của miền Bắc đi qua tuyến đường sắt từ Trung Quốc, trong khi 2/3 còn lại đến từ đường biển qua Hải Phòng và các cảng khác.[26] Lần đầu tiên trong chiến dịch, các mục tiêu được chọn vì lý do quân sự thay vì tầm quan trọng tâm lý của chúng.[27] Trong 4 tuần đó, 26 cây cầu, 7 chiếc phà bị phá hủy.[28] Các mục tiêu khác bao gồm các hệ thống radar, doanh trại, và kho đạn.

Tuy nhiên, vùng cán xoong miền Trung vẫn là trọng tâm chính yếu của chiến dịch, tổng số lượt đánh phá tại đây tăng từ 3.600 trong tháng 4 lên 4.000 trong tháng 5.[29] Chuyển dần từ việc phá hủy các mục tiêu cố định, chính phủ đã cho phép thực hiện các phi vụ "trinh sát có vũ khí" mà trong đó các đội hình máy bay nhỏ tuần tiễu các đường quốc lộ, đường sắt, sông ngòi... để tìm kiếm cơ hội và mục tiêu. Đến cuối năm 1965, các phi vụ này đã tăng từ 2 lên 200 lượt mỗi tuần.[29] Cuối cùng, các phi vụ trinh sát có vũ khí đã chiếm tới 75% tổng nỗ lực ném bom, một phần vì quy trình của việc yêu cầu, chọn, và duyệt đối với các mục tiêu cố định quá phức tạp và nặng nề.[30]

Ưu tiên thay đổi và các cuộc đánh phá kho xăng dầu

Nếu Sấm Rền đã có nhiệm vụ là "đánh tín hiệu" để Hà Nội từ bỏ các hành động của mình, thì nó đã không có vẻ gì là có hiệu quả. Ngày 8 tháng 4, đáp lại đề nghị đàm phán hòa bình, Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng tuyên bố rằng đàm phán chỉ có thể bắt đầu sau khi Mỹ ngừng ném bom; Mỹ rút toàn bộ quân ra khỏi miền Nam; chính phủ Sài Gòn thừa nhận các đòi hỏi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam; và các bên đồng ý rằng việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện bởi chính người Việt Nam.[31] Như là một điềm gở, ngày 3 tháng 4 lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đã xuất hiện lần đầu tiên khi máy bay Mỹ bị tấn công bởi máy bay MiG-17 do Liên Xô chế tạo.

Các máy bay của hải quân Hoa Kỳ bắn trúng tàu chở dầu viện trợ cho Bắc Việt Nam tháng 7 năm 1965

Toàn bộ nước da của nỗ lực Mỹ đã thay đổi vào ngày 8 tháng 3 năm 1965, khi 3500 lính Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào bờ biển Đà Nẵng, với mục tiêu bề ngoài là để bảo vệ các sân bay ở phía Nam dùng cho việc thực thi chiến dịch Sấm Rền.[32] Nhiệm vụ của lực lượng trên bộ đã được mở rộng thành các hoạt động chiến trận, và từ đó trở đi chiến dịch trên không trở thành hoạt động thứ yếu, nó bị che khuất dần bởi các cuộc triển khai quân và leo thang trong các chiến dịch trên bộ tại Nam Việt Nam.[33] Cho đến tuần thứ ba của tháng 4, Sấm Rền vẫn được vị thế ngang hàng với các phi vụ không kích tại miền Nam. Sau đó, các cuộc không kích ảnh hưởng đến yêu cầu của chiến trường miền Nam đã bị cắt giảm hoặc hủy bỏ.[34]

Tính đến 24 tháng 12 năm 1965, Mỹ đã mất 170 máy bay trong chiến dịch (85 máy bay của Không quân, 94 của Hải quân, và 1 của Thủy quân lục chiến). Không lực Việt Nam Cộng hòa cũng mất 8 máy bay.[35] Các phi đội của Không quân đã bay 25.971 lượt, thả 32.063 tấn bom. Hải quân bay 28.168 lượt và thả 11.144 tấn bom. Không lực Việt Nam Cộng hòa đóng góp 682 phi vụ, số bom đã thả không rõ bao nhiêu.[36]

Một máy bay F-105 của Mỹ bị bắn rơi

Ngày 5 tháng 4 năm 1966, thám báo Mỹ phát hiện ra rằng VNDCCH đang xây dựng các vị trí có thể dành cho các khẩu đội tên lửa đất-đối-không (SAM). Không quân và Hải quân Mỹ cùng đệ trình Washington xin phép đánh phá các vị trí trên nhưng đã bị từ chối, vì hầu hết các vị trí trên đều ở gần các khu vực đô thị bị hạn chế.[37] Sự kiện ngày 24 tháng 7, khi một máy bay F-105 bị một tên lửa SA-2 Guideline bắn rơi đã không gây ngạc nhiên. Ba ngày sau đó, Washington đã cho phép một cuộc không kích đánh phá hai địa điểm đặt tên lửa trên. Tuy nhiên, người Mỹ đã rơi vào một cái bẫy tinh vi khi các địa điểm trên hóa ra lại là trận địa giả, bao quanh bởi các trận địa pháo phòng không. Một phi công Mỹ đã miêu tả diễn biến tiếp sau đó "trông như thể ngày tận thế"[38]. 6 trong số các máy bay tấn công đã bị bắn rơi trong trận thua này (2 phi công thiệt mạng, 1 mất tích, 2 bị bắt, 1 được cứu thoát).[38]

Ngày 29 tháng 6 năm 1966, Johnson cho phép các cuộc không kích đánh phá các kho xăng dầu ở miền Bắc. Giới quân sự Mỹ đã đề nghị những cuộc không kích kiểu này từ đầu chiến dịch, họ tin rằng việc phá hủy trữ lượng xăng dầu của Bắc Việt Nam sẽ làm ngừng trệ các nỗ lực quân sự của nó. Ban đầu, các cuộc không kích có vẻ thành công, phá hủy các kho chứa gần Hà Nội và Hải Phòng và dẫn đến việc CIA tin rằng 70% cơ sở hạ tầng xăng dầu của miền Bắc đã bị phá hủy đổi với cái giá là 43 máy bay bị mất.[39] Tuy nhiên, thành công này đã chỉ là một sự bất tiện nhất thời cho VNDCCH, do Hà Nội đã lường trước một cuộc đánh phá như vậy và đã phân tán hầu hết trữ lượng xăng dầu trong các thùng nhỏ 50-gallon tại suốt dọc chiều dài đất nước. Các cuộc đánh phá xăng dầu bị ngừng lại vào ngày 4 tháng 9 sau khi tình báo Mỹ thừa nhận rằng "chưa có bằng chứng nào cho việc thiếu xăng dầu tại Bắc Việt Nam."[40]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Sấm_Rền http://library2.usask.ca/vietnam/index.php?state=b... http://acepilots.com/vietnam/viet_aces.html http://aupress.au.af.mil/catalog/books/Tilford_B40... http://aupress.au.af.mil/fairchild_papers/Head/hea... http://www.au.af.mil/au/awc/awcgate/readings/drew2... http://www.airforcehistory.hq.af.mil/Publications/... http://www.airpower.maxwell.af.mil/airchronicles/a... http://handle.dtic.mil/100.2/ADA425601 http://stinet.dtic.mil/oai/oai?&verb=getRecord&met... http://www.history.navy.mil/seairland/index.html